III. KỸ THUẬT XEM TƯỚNG THEO TIÊU CHUẨN THỜI GIAN

 a) Quan sát vận mệnh hàng năm 
Danh từ vận mệnh ở đây bao gồm mọi sự may mắn hoặc rủi ro về công danh sự nghiệp, gia đạo tiền bạc sức khỏe của cá nhân cũng như của một số người thân thuộc của họ như cha mẹ, vợ con, anh em ruột.  

     Thông dụng nhất là phương pháp lưu niên được ghi lại trong các sách Ma y tướng pháp, Thần tướng toàn biên, Tướng lý hoành  chân

     Theo phương pháp này, ta chia khuôn mặt thành từng khu vực nhất định, mỗi khu vực Triệu Giãn Tử cho từng năm tuổi. Muốn biết vận mạng mỗi năm của một cá nhân ra sao ta chỉ cần căn cứ vào cách cấu tạo của mỗi bộ vị, khí sắc của chúng. (Trong đoạn nói về phép xem khí sắc hằng năm ở chương 3, quyển II, soạn giả đã ghi rõ họ tên của từng khu vực với danh xưng riêng biệt và ứng với năm tuổi nhất định cùng sơ đồ hướng dẫn đính kèm. Độc giả chỉ cần tham khảo lại phần đó là đủ tài liệu giải đoán ). Tuy nhiên cần phải lưu ý là xem bộ vị khác nữa. Dưới đây là bảng tương quan giữa bộ vị cần quan sát và bộ vị tương ứng phối hợp với nó

- Tai bên trái: (Những năm từ 1 đến 7 tuổi) phối hợp với khu vực Thiên thương. Tai bên phải (Những năm từ 8 đến 14 tuổi) phối hợp với khu vực địa phố. Muốn biết rõ vận hạn căn bản của hai tai ta phải quan sát cặn kẻ khu vực sơn căn

- Đỉnh trán (chủ về 15 tuổi) cần phối hợp với đỉnh đầu: Thiên Trung (16 tuổi) quan sát cần phối hợp với tai phải. Trọng điểm quan sát phối hợp của cả đỉnh trán và Thiên trung là Trung chính

- Nhật giác (chủ về năm 17 tuổi ). Nguyệt giác (năm 18 tuổi), cần phải phối hợp với hai mắt và hai tai. Đặc biệt đi sâu vào chi tiết của từng năm thì Nhật giác phải có sự hỗ trợ của cặp mắt hơn là cặp tai, còn Nguyệt giác thì ngược lại với Nhật giác

- Thiên đỉnh(19 tuổi) phối hợp với vị thế chân mày, phải không được xung khắc với Nhật giác và chuẩn đầu làm trọng điểm để đoán kết quả chung cuộc của năm 19 tuổi

- Tả hữu phu giác: (còn gọi là phụ cốt), chủ về 2 tuổi 20 và 21 phải phối hợp với thiên thương và sống mũi 
- Tư không (22 tuổi) phải phối hợp tương xứng với tai trái, Sơn căng và đặc biệt là Nhân Trung 
- Bộ vị của hai tuổi 23 và 24 phối hợp đặc biệt với nhãn thần, còn cốt khí của các bộ vị gần hai vị trí của biên thanh đóng vai trò phụ trợ 
- Trung chính (25 tuổi) lấy hai chân mày và Sơn căng làm bộ vị hỗ ứng 
- Các bộ vị của hai tuổi 26, 27 phối hợp với thế của cặp mắt, hai tai nhất là tai phải và giữa trán 
- ẤN đường (28 tuổi) phối hợp với mũi và miệng 
- Lăng vân, khí (31, 32 tuổi) phối hợp với mắt và tai đặc biệt là lấy khí thế của sống mũi làm căn bản 
- Phồn hà, Thái hà (33, 34 tuổi), phối hợp với trán và lông mày 
- Thài dương (giữa mắt trái) phối hợp với tai phải, cũng như các làm việc lân cận của mắt như lông mày, xương phía trên tai. Luận về Thái âm (giữa mắt phải) cũng vậy. Cả hai lấy phần xương hai bên phía trên làm trọng điểm để định vận hạn của 
chính các năm đó 
- Trung dương: phối hợp chặt chẽ với chân mày trái. Trung âm phối hợp chặt chẽ với khí thế của mũi. Tuy nhiên, cả hai đều phải phối hợp liên hoàn với tất cả các bộ vị vừa kể và lấy Lưỡng quyền làm trọng điểm để định vận hạn 
- Thiếu dương phối hợp với miệng, thiếu âm phối hợp với hai tai, tất cả lấy Ngư vĩ làm trọng điểm thẩm định tối hậu 
- Sơn căn phối hợp chính với xương gáy (ót), phối hợp phụ với Địa các là lấy mắt trái làm điểm suy luận chính cho vận hạn ứng với năm tuổi tượng trưng cho Sơn căn 
- Tịnh xá phối hợp chính với trán, Quang diện phối hợp chính với cặp chân mày, cả hai lấy Ấn đường để tìm kết quả chung cuộc 
- Niên thượng đặt nặng phần phối hợp với mắt phải. Thọ thương đặt nặng phần phối hợp với tai phải. Cả hai lấy khí thế của mi cốt làm căn bản suy đoán vận hạn chính 
- Lưỡng quyền lấy khí thế mi cốt làm trọng điểm phối hợp. Lấy phần xương sọ phía sau đầu đối xứng với lưỡng quyền làm căn bản suy đoán chính 
- Chuẩn đầu phối hợp với cặp mắt và Lưỡng quyền. Nếu Quyền hãm thì Chuẩn đầu tối kỵ nhỏ nhọn mà cao, lấy miệng làm tiêu chuẩn suy đoán vận hạn 
- Gián dài, Đình uý lấy hai tai và cặp mắt làm đối tượng phối hợp với miệng làm tiêu chuẩn suy đoán vận hạn trong năm đó 
- Nhân trung phối hợp với trán và cặp tai. Tất cả đều sáng. Bằng không một mình nhân trung tốt các bộ vị trên không ra gì thì không thể nói là năm 51 tuổi tốt được 
- Tả hữu, Tiên khố phối hợp chặt chẽ với cặp chân mày và lấy Ấn đướng làm cơ sở kết luận 
- Thực hương cần ứng với tai phải. Lộc thương cần thích nghi phối hợp với chân mày trái. Nốt ruồi , cả hai lấy pháp lệnh làm chuẩn về sự suy đoán vận hạn chính 
- Pháp lệnh cả hai phần của Pháp Lệnh phối hợp với khí thế của miệng, mũi lấy Ấn Đường để làm cơ sở suy đoán vận hạn chính nhưng đi sâu vào chi tiết thì pháp lệnh bên trái đặt nặng vào sự liên hệ với mũi còn pháp lệnh bên phải liên quan mật thiết 
với miệng hơn 
- Tả hữu, hổ nhỉ cần phối hợp thích ứng với hai tai và hai mắt 
- Miệng phối hợp với trán, mũi và lấy Thuỳ châi để định vận hạn về miệng 
- Thừa tương lấy sự phối hợp đắc thế với khí thế của chân mày và các phần trên của cặp tai làm chủ yếu 
- Địa các phối hợp chặt chẽ với khi thế của miệng, mũi và lấy mục quang làm tiêu chuẩn để luận đoán sự cát hung của năm tuổi ứng với địa các

b) Quan sát theo chu kỳ 9 năm 
Với phương pháp này ta chọn 9 bộ vị căn bản là cặp chân mày. Cặp mắt, cặp tai mũi miệng và trán làm nền tảng quan sát. Mỗi bộ vị căn bản này chủ về vận hạn của một số năm gồm năm bản vị và những năm sau đó cách quãng một thời gian 8 năm. Nói khác đi, đó là những năm tuổi tiếp theo cấp số cộng sai là 9

     Chân mày bên trái: chủ về vận hạn của năm 1 tuổi và những năm có số cộng sai là 1+9, 10+9,19+9,18+9,31+9,40+9. Nói khác đi những tuổi 1, 10, 19, 28, 37, 46, 55 thì xem chân mày bên trái. Hình thể cấu tạo phẩm chất và màu sắc của năm đó sẽ 
cho biết vận hạn vào những năm tuổi đó ra sao 
- Tíêp tục áp dụng cách tính này cho các bộ vị khác ta có 
- Mũi: chủ về năm lên 2 tuổi và những năm 11, 20, 29, 38, 47, 56 tuổi 
- Miệng: chủ về năm lên 3 tuổi và những năm 12, 21, 30, 39, 48, 57 tuổi 
- Tai bên trái: chủ về năm lên 4 và những năm 13, 22, 31, 40, 49, 58 tuổi 
- Mắt bên trái: chủ về năm lên 5 và những năm 14, 23, 32, 41, 50, 59 tuổi 
- Trán: chủ về vận hạn của năm lên 6 và những năm 15, 24, 33, 42, 51, 60 tuổi 
- Chân mày phải: chủ về vận hạn của năm lên 7 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi 
- Mắt phải: chủ về vận hạn của năm lên 8 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi 
- tai bên phải: chủ về vận hạn của năm lên 7 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi

c) Quan sát có tính cách khái quát chung thân 
Việc quan sát vận hạn con người một cách khái quát về toàn bộ một đời người gồm sơ vận, trung vận và vãn vận, có khá nhiều phương pháp nhưng tựu trung chỉ có hai phương pháp sau đây là thông dụng nhất

1. Phương pháp căn cứ vào Tam đình 
     Trong phương pháp này, tuy nói là Tam đình nhưng thật sự chỉ căn cứ vào trán, mũi và toàn thể cằm (không tế phân thành những bộ vị nhỏ như trong phép đoán lưu niên hàng năm) và gia đình và nếp sống trung bình của một cá nhân là 60 tuổi. Hết 60 tuổi thì lại trở về khởi nguyên một chu trình mới. Bây giờ xin đi vào nội dung của phương pháp này:

- Trán: chủ về 20 năm đầu của cuộc đời 60 tuổi nên cũng còn gọi là sơ vận. Trán tốt, cách cấu tạo có khí thế, hình thể trán rộng rãi, không khuyết hãm là dấu hiệu của sơ vận tốt đẹp 
- mũi: chủ về 20 năm kế tiếp tức là từ lúc 21 tuổi đến 40 tuổi. Hình dạng khí thế của mũi sẽ giúp ta biết được trung vận của một cá nhân 
- Cằm: chủ về vận hạn tức là từ năm 41 tuổi đến năm 60 tuổi. Cằ, nảy nở cân xứng, có khí thế vững vàng là dấu hiệu vận hạn tốt đẹp. Trái lại cằm dài nhọn lệch hãm hoặc không có khí thế là điềm báo trước cảnh về già khốn khổ lênh đênh

     Đọc đến đây chắc độc giả sẽ thắc mắc là phần Trung đỉnh còn cặp mắt là bộ vị trọng yếu, phần Hạ đình còn có miệng là phần rất quan trọng tại sao lại bỏ qua? Thực ra mắt và miệng tuy là các bộ vị tối quan hệ nhưng phải bỏ qua do chúng ta ở đây chỉ đứng về phương diện cốt tướng học, lấy phần có xương làm đối tượng quan sát chính theo quan điểm chung của tướng học mà điển hình là của Ma Y. Trong Thần di phú Ma Y đã nói rõ: "Cốt cách vi nhất thế vinh khô" (Cốt cách định được vận mạng của đời 1 con người, phú quý bần tiện đều phần lớn thể hiện qua cốt cách). Tuy nhiên nói vậy không có nghĩa là bỏ qua ý nghĩa của mắt, miệng. Màu sắc và hình dáng miệng giúp ta biết được tước lộc tổng quát của con người. Thần khí của mắt không phải chỉ ảnh hưởng ở trung vận mà còn suốt cuộc đời con người, liên quan đến phúc họa chung thân. Cho nên mắt toàn hảo về hình thể cả về cách cấu tạo lẫn thần khí thì đầu Tam đình có bị khuyết hãm phần nào cũng không mấy tồn hại. Ngược lại nếu Tam đình hoàn hảo về hình thể mà mục quang vô thần hay ảm đạm thì không thể quyết đoán tướng kẻ thành đạt hoặc hậu vận khả quan được

2.- Phương pháp căn cứ vào mũi và hai tai: 
Phương pháp này cũng giả địng rằng kiếp người trung bình là 60 năm. Tai trái chủ về sơ vận và tai phải chủ về 20 năm còn lại của cuộc đời ( nếu xem tướng đàn bà thì đổi lại thứ tự của hai tai, còn mũi thì không thay đổi. Trong trường hợp này đàn bà lấy tai phải chủ về sơ vận, tai trái chủ về vãn vận ). Hết chu kỳ 60 năm ta lại trở về phần khởi nguyên của chu trình thứ 2. Nghĩa là 61 tuổi đến 80 tuổi thì căn cứ vào tai trái mà giải đoán.

    Tựu trung tai tố, mũi tốt thì vận tốt: tai xấu mũi hỏng thì ngược lại. Sự xấu tốt của tai, mũi đã được trình bày rất chi tiết ở các chương thuộc quyển I nên ở đây thiết tưởng không cần nhắc lại. Nếu cá nhân có cả hai tai thì có thể đoán một cách tổng 
quát là cuộc đời kẻ đó phúc thọ dồi dào, ít bị thất bại chua cay trên đường công danh sự nghiệp. Tuy nhiên, cũng như ở phương pháp thứ nhất ( Căn cứ vào Tam Đình ) ta cần phải chú ý đến thần, khí và cả tâm tướng nữa. Nếu thần, khí và tâm tính khắc bạc thì chớ vội võ đoán bất kể là hai tai và mũi xấu tốt thế nào. 

     Ba kỹ thuật trên có nhiều điểm dị biệt vì mỗi kỹ thuật dựa trên 1 giả thuyết và đều có phần sở trường, sở đoản . Kỹ thuật quan sát vận hạn hàng năm có ưu điểm là đi sâu vào chi tiết, nhưng quá chi tiết nên thiếu mất phần đại thể. Kỹ thuật thứ 2 dựa trên ức thuyết là vận số biế chuyển theo một chu trình thông thường là 9 năm, nhưng xét kỹ vẫn là chi tiết hơn là đại thể. Loại kỹ thuật thứ 3 lại chỉ chuyên về đại thể mà không thể đi vào chi tiết. Cả ba đều căn cứ vào một số kết quả thực tế thu thập được qua một thời gian là do những người khác nhau tạo dựng. Như vậy sự dị biệt và đôi khi mâu thuẫn giữa các quan điểm về kỹ thuật xem tướng tất nhiên phải có. Vã chăng xưa nay vấn đề Định mệnh vẫn là một vấn đề triết học còn đang được tranh luận. Phương pháp xem tướng để biết được một thời điểm hầu tì hiểu vận mạng con người trong thời điểm đó tốt xấu ra sao được căn cứ vào thuyết Định mệnh nên nó chỉ là một giả thuyết chứ không phải là định luật vạn vật chính xác nư 2 với 2 là 4. Bởi vậy, về kết quả nó có thể đúng với người này mà không đúng với người kia, đúng trong thời gian này chưa hẳn đã đúng trong thời gian khác. Về căn nguyên, nó có thể phủ nhận hay được công nhận bất cứ nguyên tắt có tính giả định nào trong khoa học nhân văn này.

    Theo thiển ý, tìm hiểu tương lai là tìm cách thích ứng để dự phòng bất trắc, dù là sự tìm hiểu đã được căn cứ vào một số giả thuyết vẫn hay hơn là cứ phó mặt cho sự may rủi để rồi nước tới chân không kịp nhảy. Tuy nhiên chúng ta cũng lhông nên vì vậy mà tin tưởng quá đáng đến chỗ lấy giả thuyết làm chân lý. Nếu chúng ta đồng ý như vậy thì phần kỹ thuật xem tướng căn cứ vào thời gian này không phải là hoàn toàn vô ích.

    Cũng bởi lẽ các kỹ thuật xem tướng chỉ là các phương pháp đặt nền tảng trên ácc giả thuyết đã được thực nghiệm hỗ trợ, nhưng vì đấy chỉ là những kết quả hữu hạn cho nên ta không nên quá thiên về một kỹ thuật nào đó, vì mỗi kỹ thuật chỉ bao quát một số lĩnh vực chứ không bao trùm hết tất cả mọi lĩnh vực liên quan đế con người. Điều hợp lý hơn hết là ta nên dùng cả 3 phương pháp để bổ túc lẫn nhau hầu phong phú hóa các dữ kiện thu thập được trong việc tìm hiểu tương lai vận mạng con người.

Xem tiếp >>