QUYỂN HẠ

LÝ TƯỚNG VÀ PHÁP TƯỚNG


    Quyển thứ nhất trình bày các nét tướng và loại tướng, phần lớn có tính cách phân tích và nặng về khía cạnh tĩnh. Đó là phần tướng học biểu kiến, hình thức và tổng quát, mô tả từng bộ vị và phân loại hình hài của con người dựa trên các ngoại biểu vật thể phần lớn nhận thức được bằng vị giác. Vì thiên về phân tích, quyển 1 không phối trí các bộ vị, các loại tướng một qui tắc chi phối tương quan.

      Quyển thứ hai đề cập đến phần lý tướng và tương pháp,nêu những qui tắc tương quan giữa các bộ vị giữa các hình hài, giữa các hình hài và bộ vị với nhau ngõ hầu giúp được giả thấu hiểu ý nghĩa đa phương và biến đổi giữa các nét tướng. Quyển 2 khảo sát tướng học trên phương diện tổng hợp nhìn dưới khía cạnh động ,nên những yếu tố phi vật thể, phần lớn được nhận thức bằng trực giác và tâm linh. Nói khác đi,về mặt biển khảo, quyển đầu chỉ mới giúp người học tìm khai đề(thèse) và phản đề (antithèse) trong khi quyển sau giúp ta đi vào phần hợp đề (synthèse).

      Thực vậy, muốn thấu đáo con người phức tạp và đa dạng, chúng ta không thể chú trọng đến cục bộ và chi tiết mà phải nhìn cho được đại thể của nó trong hệ thống tương quan chi phối toàn cục. Việc hiểu biết từng nét tướng chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ. Con người thực tế là 1 khối duy nhất do toàn thể những nét tướng chi tiết hợp thành. Sự tốt xấu của khối duy nhất đó không phải là tổng cộng máy móc có tính cách toán học cứng nhắc của các sự tốt xấu lẻ tẻ chắp nối lại, Hơn nữa, con người là một sinh vật có tri giác, vốn động cả hình, chất lẫn tâm hồn . Những nét tướng của con người tuy tĩnh bề ngoài nhưng kì thực lại động bên trong và động trong suốt tiến trình của cuộc đời .

    Tướng học Á Đông đã lĩnh hội được nguyên lý căn bản đó.Tướng lý Á Đông nhấn ttương quan giữa các yếu tố, kết hợp hình thức và thực chất , gắn liền nét tĩnh với nét động, phối hình tướng với tâm tướng ,liên kết ngoại diên với nội tâm.

      Những thế kỉ thực nghiệm đã giúp nền tướng học Á Đông khám phá được các yếu tố tương quan đó trong nguyên tắc thanh trọc ,trong thần ,sắc ,khí, trong khí phách của con người ,trong nguyên tắc âm dương ngũ hành của vũ trụ. Từ đó nhiều thế kỉ thực nghiệm đã đào sâu thêm tướng lý và khai phá ra tướng pháp, nói khác đi là phương pháp xem tướng càng ngày càng hướng về thực tiễn và đặc biệt càng ngày càng xác định . Người ta dùng tướng để quyết định vận mạng đã đành ,có người dụng tướng để chọn tướng hảo tôi trung .Chỗ dụng của tướng học được nới rộng rất nhiều từ chỗ kiến thức đến chỗ ứng dụng cho con người nói riêng và cho quốc gia xã hội nói chung.

      Một học thuật kì thú và bổ ích như thế không phải dễ hội nhập . Để giúp học giả nắm được tinh lý của tướng học , quyển 2 sẽ trình bày trong 6 chương :

  • Nguyên tắc thanh trọc .

  • Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành và ứng dụng của nó trong tướng học .

  • Ý niện Thần , Khí ,Sắc và Khí phách.

  • Phương pháp xem tướng .

  •  Những ứng dụng của tướng học.

  • Tướng phụ nữ. 
     

Để kết luận ,soạn giả có phụ thêm vào phần cuối sách một vài nhận định về môn học thuật cổ điển này . 
 

CHƯƠNG THỨ NHẤT 
NGUYÊN TẮC THANH TRỌC


II. THỬ PHÁT HỌA HAI Ý NIỆM THANH VÀ TRỌC 
     Trong tướng học Á Đông ,Thanh và Trọc là hai ý niệm vô cùng súc tích và là hai ý niệm căn bản để giải đoán quí tiện cát hung , thành bại , thọ yểu của con người. Thanh Trọc chi phối hết các nét tướng của con người .Có thể nói mọi lãnh vực quan sát của tướng học Á Đông đều hướng về việc tìm tòi phân biệt những điểm Thanh,Trọc rồi dựa vào đó mà luận đoán . Nhưng trước hết Thanh ,Trọc là gì ?

a) Thanh:

     Từ ngữ Thanh chỉ tất cả các nét tướng tốt của con người ,từ tướng cơ thể đến tướng tinh thần ,từ nét tướng động tĩnh và cả những nét tướng phối hợp động,tĩnh bao gồm cái tốt về phẩm và về lượng dưới đủ mọi dạng thức .

      Nếu nói về sắc da,Thanh có nghĩa là hữu tình ,ưa nhìn,không đậm,không lạt. 
Trong trường hợp này việc thẩm định tính chất Thanh nặng về chủ quan và trực giác hơn là khách quan và thị gíac hiểu theo nghĩa thông thường.

      Nói về giọng nói, Thanh có nghĩa là trong trẻo,âm lượng vừa phải , không quá lớn đến đinh tai nhức ốc , không chua như dấm, không xoáy vào tai người nghe như kim châm,v.v...nhưng không quá nhỏ như tiếng dế,tiếng ong. Giọng nói thanh tao, hảo cảm, vui tai không phải vì lý luận hữu lý mà vì tính chất ấm áp hay trong trẻo , rõ ràng , không rè, không chát.

      Nói về cử chỉ,Thanh có nghĩa là cử chỉ mực thước, quý phái không sỗ sàng, cương nhu thích nghi . Đó là cử chỉ của loại người gọi là hào hoa , phong nhã ,theo đúng nghĩa trong sạch của nó.

      Nói về bộ vị hay người bộ vị Thanh kết hợp lại tạo thành một cơ thể hay cơ cấu (structure) cân xứng ,linh động ,có sinh khí về cả phẩm lẫn lượng một cách có thẩm mỹ . Cặp lông mày được gọi là Thanh khi sợi lông mày không lớn hơn sợi tóc ,dài và mọc cách nhau thế nào để kẻ quan sát cách xa đó một hay hai thước nhìn thấy được phần da của chân lông mày ,sắc lông mày đen xanh và mượt .Mũi Thanh là mũi ngay thẳng và cao, không leach ,gián đài và đình úy không quá lớn. Đầu mũi không quá mập . Chẳng hạn mũi tiêm đồng,mũi thông thiên được coi là Thanh ,mũi sư tử, mũi túi mật treo bị coi là trọc.

     Nói về thân hình ,loại người hình mộc (loại Giáp Mộc) được coi là Thanh ,người trọng Thổ bị xem là Trọc.  

      Nói về thần khí ,kẻ mắt lồi,mục quang hung hãn,hoặc lòng đen ,tròng trắng mờ đục thì không Thanh. Trái lại ,ánh mắt sáng ,êm dịu ,tinh anh ,đồng tử trong suốt như pha lê ,long đen tròng trắng rõ ràng ,thuần khiết không mờ đục ,không có tia máu xâm phạm được coi là thần thanh , khí sảng.

      Nói về tổng quát,nếu có sự phối trí tương xứng theo một hòa điệu (hramonie) giữa các thành phần trong bộ vị cơ thể thì gọi là Thanh. Thí dụ :phía sau đầu và trước mặt ,phía phải và trái khuôn mặt cân xứng và thích nghi với thân mình được xem là Thanh, trong phép phối hợp ngũ hành của cơ thể,người thuần túy một hình hay bác tạp nhưng không xung khắc được xem là Thanh . Chẳng hạn thân hình nặng nề, chắc nịch,mặt mũi thô kệch nhưng mắt sáng ,mày tươi ,giọng trong trẻo thì phần sau đó gọi là Thanh trong cái trọc của toàn thể thân hình.

       Nói về động tĩnh ,nếu có hòa hợp động và tĩnh tức là phần động trội hơn phần tĩnh nhưng không làm mất thế quân bình ,phần phẩm hơn phần lượng, nhưng không vượt ra ngoài tiêu chuẩn đều được gọi là Thanh .Đó là trường hợp những kẻ gầy yếu

- Mặt mày sáng sủa ,thân thể khôi vĩ, nhưng nhìn vào không oai vệ hay khiến người dễ chán. 
- Đàn ông quyền thấp,tiếng nói có vẻ nữ nhi. 
- Mặt đầy đặn,phối hợp tương xứng với ngũ quan nhưng đấu mũi bị lệch. 
- Răng tuy trắng ,đều,khít nhưng không bóng bẩy. 
- Miệng tuy rộng nhưng không có lăng giác, mũi không hồng, răng thưa. 
- Lông mày tuy đẹp nhưng sợi lông mày mọc thưa, ngang hoặc tráp với phương vị cố hữu. 
- Mày tuy cao nhưng sợi thô hắc ám. 
- Mặt tuy sáng nhưng lộ chân quang. 
- Râu tuy đẹp nhưng không tương xứng với tóc và lông mày. 
- Người tuy đúng cách cục nhưng sắc hôn , khí ám. 
- Người tuy to lớn , mập mạp trông có vẻ phúc hậu nhưng thịt bệu, da khô, tóc cằn,v.v... 
Người có đặc điểm kể trên thì thoáng qua thấy có vẻ thanh nhã nhưng tương hợp coi đó là thanh trung hữu trọc vì trong cái đẹp có lẫn cái xấu .

b) Trọc trung hữu thanh: 
Những người có hình dạng cục mịch thô lỗ hay mặt mày méo lệch ,tam đình,ngũ nhạc bất quân xứng nhưng nếu có : 
- Mắt sáng mà mục quang ẩn tàng. 
- Thiên đình cao rộng,sáng sủa. 
- Phía trong vành tai màu hồng tươi nhuận hay tai mọc cao quá lông mày ,sắc bề ngoài trắng hơn da mặt,hay luân quách phân minh. 
- Lông mày tươi mịn.mọc cao và không gián đoạn. 
- Hoặc người nhỏ yếu,thấp lùn nhưng tiếng nói sang sảng như tiếng chuông ngân hay thanh tao như những hạt ngọc rơi rớt trên mâm bạc. 
- Có tướng ngũ tiểu hoặc ngũ lộ nhưng phẩm chất các phần lộ đó đều tốt đẹp. 
- Người khẳng khiu nhưng dáng dấp hiên ngang,đi như rồng bay cọp bước,khí phách hoằng đại,v.v.. 
Suy rộng ra ,khi nhìn moat cá nhân qua nhiều bộ vị ,ta thấy hình dáng màu sắc của chúng thoáng qua thì thô bỉ,nhưng đi sâu vào chi tiết,ngắm lâu lại thấy hữu tình hoặc hảo cảm,quan sát moat cá nhân ta thấy khuôn mặt ,thân hình,tiếng nói,v.v...không gây hảo cảm lúc ban đầu,nhưng tổng hợp tất cả lại hoặc là thấy có sự sinh động đặc thù hoặc cử chỉ động tác linh hoạt,phong nhã ,tính tình quả cảm,trung hậu khiến ta sinh long nể phục về sau đều được gọi là trọc trung hữu thanh.

c) Thẩm định ý nghĩa của tương quan thanh trọc : 
Trong quan điểm của tướng học, thanh trung hữu trọc được xem là cái đẹp hời hợt,bất túc,trong cái hay đã tiềm ẩn cái dở, nên thường dùng để chỉ trường hợp tốt đẹp bề ngoài,hậu quả tốt chỉ thoáng qua,còn chung cuộc thì rất xấu. Ngược lại , trọc trung hữu thanh được xem là cái xấu biểu kiến phủ ra ngoài cái đẹp thực chất, nhưng vì vẫn là cái đẹp không được thập toàn hoàn mỹ ,nên khi khởi đầu bị vùi dập,sóng gió.về sau mới có kết quả tốt lành. 

     Cũng bởi lẽ trên, trong thực tế có những kẻ mặt mũi khôi ngô,hoặc dung mạo xinh đẹpmà công danh sự nghiệp hoặc bản thân bị khốn đốn bởi vì sinh ra có cách thanh trung đới trọc.Có những ngu7òi thoáng qua thấy tướng mạo cực kì bần hàn, xấu xí mất cả thiện cảm mà rốt cuộc trở thành đại quý cực phú là vì hợp cách trọc trung hữu thanh.

      Dưới nhãn quan tướng học, Thanh được xem là tốt,là quý,vì thế Thanh đồng nghĩa với quý.Trọc bị xem là xấu nên đồng nghĩa với tiện. Ta phải hiểu là tiện và quý trong các sách tướng chỉ dùng để chỉ hậu quả của Thanh và Trọc mà thôi. Hiểu như vậy, những phá tướng về hình thể lẫn tâm hồn đều bị coi là Trọc , dù là ẩn tàng hay biểu lộ .Những nét tướng tốt dù trong hay ngoài, dễ nhận thấy hay là phải khổ công mất nhiều ngày giờ mới khám phá ra đều được gọi là Thanh.

     Thanh thì quý đã đành,nhưng như trên đã nói , con người thường thanh trọc lẫn loan ,nên vấn đề đặt ra ở đây là thanh trung hữu trọc tốt hay trọc trung hữu thanh tốt ?Câu trả lời thông thường là trọc trung hữu thanh tốt hơn là thanh trung hữu trọc .Nhưng cái đó cũng chỉ có ý nghĩa và giá trị tương đối vì nó còn tùy thuộc vào nhiều dữ kiện :

1-Thanh trung hữu trọc : thông thường thì tốt nhưng không được toàn mỹ. Do đó, thanh trung hữu trọc thường không tốt đẹp, hanh thông một cách đều đặn, tiền chậu hung. Điều này không có nghĩa tuyệt đối vì : 

- Có những trường hợp thanh trung hữu trọc không có tốt đẹp gì đáng kể, mà lại rất xấu nếu những điểm thanh nhiếu, nhưng là những điểm phụ thuộc hoặc thuộc về lượng, còn trọc tuy ít nhưng là điểm căn bản, cốt yếu hoặc thuộc về phẩm. 

Thí dụ : Mũi có chuẩn đầu đình uy và gián đài nảy nở đặc biệt(tức là loại mũi sư tử hay huyền đởm tỵ) chủ về giàu có,nhưng nếu bị leach không tương xứng với khuôn mặt hoặc đi đôi với lưỡng quyền nhỏ hẹp và nhọn thì bao nhiêu cái quý của mũi sư tử hướng huyền đởm tỵ bị tiêu giảm gần hết.

      Người Mộc tuy thanh nhã,nhưng đấy chỉ là những nét khái quát, nếu đi sâu vào bộ vị ta thấy miệng rộng, mũi hếch tai thuộc loại tiễn vũ nhĩ, sắc da trắng xanh thì đó là tướng phá cách hay nói cách khác đi, thanh trung đới trọc ,kết quả sẽ không ra gì. Kẻ như thế ,khó sống được quá 40 tuổi, còn nói gì đến công danh sự nghiệp.

      Ngũ quan tuy toàn hảo nhưng thần mắt suy nhược ,bước chân ẻo lả như sẽ nhảy hoặc xiêu vẹo như rắn bò ngồi gục đầu xuống như cổ chỉ có sụn không có xương thì đấy là tướng yểu chiết chứ không phải là tướng thông tuệ hiển đạt.

     Những trường hợp thanh trung đới trọc như trên có thể liệt kê hầu như vô tận và đều là loại thanh trọc đới trọc,có hậu quả chung cuộc không ra gì.

     Ngược lại, có những trường hợp thanh trung hữu trọc không có ảnh hưởng xấu tới cá nhân, nếu điểm trọc chỉ là các khuyết điểm phụ tuy hoặc thuộc về lượng . Ví dụ như: 
- Người Giáp Mộc pha Kim ,thân hình dỏng cao,ngũ quan toàn hảo nhưng cằm vuông,miệng vuông , sắc da hơi hồng thì chỉ gặp tai ương hay vận hạn không tốt một thời, cuối cùng vẫn quý hiển 
- Mũi tốt nhưng sắc da mũi không dược tươi nhuận thì đến vận hạn về mũi không thểphát huy tất cả hảo vận chứ không đến nỗi tốt biến thành xấu. 
- Nốt ruồi tuy mọc trên các bộ vị tĩnh hoặc hơi lộ liễu trên gương mặt tuy thông thường là xấu nhưng nếu nó là nốt ruồi son hay đen huyền thì vô hại,v.v...

2-Tương tự như lý luận trên ,Trọc trung hữu Thanh tuy thông thường là có ý nghĩa tốt về sau nhưng cũng không phải là có ý nghĩa tuyệt đối . Sách tướng tuy có câu "Nhất quý đề cửu tiện, nhất tiện phá cửu quý" that đấy, nhưng đấy không phải là chân lý tuyệt đối . Quý ở đây có nghĩa là thanh là tốt, chứ không có nghĩa là quý hiển . Nói khác đi, trọc trung hữu thanh chỉ có hậu quả tốt khi các điểm trọc đó chỉ phụ thuộc, còn điểm thanh trung hữu trọc phải liên quan đến Thần khí, Khí phách hay phẩm chất nội tạng của các bộ vị mà về mặt biểu kiến bị coi là trọc của con người . 
Chẳng hạn : 
Tướng ngũ lo bị coi là trọc, nhưng mắt lộ mà ánh mắt có thần và hòa ái, mũi lộ khổng màchuẩn đầu mập mạp,môi vẩu mà răng tươi khít và đều,tai bị đảo ngược luân quách nhưng sắc tươi nhuận và trắng hơn mặt : lộ hầu mà âm thanh trong trẻo, có âm lượng thực ra là tướng trọc trung hữu thanh về phẩm chất . Hơn nữa, dựa vào hai điểm mắt có thần và hòa ái, giọng nói trong trẻo có âm lượng ta suy ra kẻ đó thần thanh khí túc. Nói khác đi, có quý tướng ngầm, ngày sau sẽ thành người hiển đạt và trường thọ .

     Trái lại,nếu tướng ngũ trọc,nhưng ánh mắt hôn quyện,giọng trong trẻo nhưng thiếu âm lượng thì dẫu các phẩm chất của tai,mũi,miệng có tốt đến đâu cũng chỉ may mắn phát đạt nhất thời, chung cuộc khốn nạn thê thảm.

      Tóm lại,trong tướng học Á Đông nguyên tắc thanh trọc chi phối tất cảmọi lĩnh vực quan sát,từ b65 vị đến toàn thân,từ hình tướng đến tâm tướng.Để kết thúc tiểu đoạn này,xin đơn cử một đoạn trích văn của Phạm Văn Viên tác giả cuốn tướng pháp 
nổi danh Thủy kính tập như sau : 
     "Tướng học bàn về Thanh,Trọc tuy nói đến việc quan sát học đường * ,nhưng kẻ tướng pháp thượng thặng thực ra phải đặt nặng việc quan sát thanh trọc vào việc thẩm định mục thần và khí phách xem nó có phối hợp với bộ vị hay không.

      Kẻ sáng mắt,thần khí ẩ tàng,nhìn người thì nhìn chính diện và như xạ vào mặt người đối diện, dám nói dám làm,dũng cảm trước việc khó khăn, hay dung người , không câu chấp những sai lầm nhỏ nhặt là kẻ có thần và khí thanh. Dẫu bộ vị có khuyết hãm.khí sắc hôn ám, thân hình không toàn my thì vẫn là tướng quý vì đó là tướng trọc trung hữu thanh ." 

* Học đường là lối mệnh danh một số bộ phận của khuôn mặt như mắt, trán ,tai, miệng, lông mày, Aán đường. Lối mệnh danh này chỉ thấy trong các sách viết về tướng trước tác từ các đời Minh,Thanh trở về trước. Ngày nay, lối mệnh danh này không còn thông dụng vì quá rườm rà. 
 

IV. SỰ ỨNG DỤNG CỦA NGUYÊN TẮC THANH TRỌC TRONG TƯỚNG HỌC 
Dưới đây là một vài ứng dụng điển hình của nguyên tắc Thanh Trọc : 
a) Phân biệt 4 loại quý tướng (Thanh, Kỳ, quái, Cổ) với 4 loại tiện tướng ( Hàn, Trọc, tục, Lậu) 
Về hình thức, bốn loại quý tướng kể trên rất giống với bốn loại tiện tướng. Muốn phân biệt quý tướng ta chỉ còn có cách dựa vào nguyên tắc thanh trung hữu trọc ,trọc trung hữu danh . Đời Hán, nhà tướng học danh tiếng Hứa Phu đã luận về bốn loại tướng quý :Thanh, Kỳ, Quái, Cổ như sau : 
      "Kẻ xem tướng thường quan sát thân hình khôi vĩ, mặt mày sáng sủa toàn vẹn rồi coi đó là tướng quý, ngược lại đoán là tiện tướng , nhưng không biết rằng 4 loại Thanh, Kỳ , Cổ , Quái rất gần với 4 loại tướng Hàn, Trọc, Tục , Lậu.Tướng pháp thường nói:"Bàn về thanh trung hữu trọc , trọc trung hữu thanh là căn cứ vào thần, khí và các học đường nhưng thực ra là chỉ căn cứ vào mục thần cũng tạm đủ để quán thông mọi sự ."

1-Thanh tướng rất gần Hàn tướng :

    Thân hình tao nhã,mặt mày thanh khiết, cử chỉ linh hoạt, dáng dấp dịu dàng, mảnh dẻ trông giống như các dấu hiệu non yểu nhưng thịt tuy trắng mà nhuận,ánh mắt không dao động mà tự co thần khí đó là Thanh tướngù chứ không phải là Hàn 
tướng (tướng lạnh lẽo chết non).

       Hàn tướng cũng giống như Thanh tướng về cách cục bộ vị nhưng ánh mắt quá lạnh, không linh hoạt hoặc thanh tướng về hình hài mà mục quang bất động và trì trệ, hoặc tai trắng như sương hay hồng như lửa mà khô xạm .

      Thanh tướng chủ quý và thọ vì tinh thần sáng suốt, thọ căn ổn cố,Hàn tướng thì thần thiêu phách tán ,thọ mạng ngắn ngủi.

2-Kỳ tướng giống như Trọc tướng : 
      Mắt lộ mày đậm, khuôn mặt to lớn khác thường , hình dáng thô kệch xấu xí, nhưng mắt tuy lộ mà có thần khí ẩn tàn , mày tuy đậmmà sợi lông mày tươi mịn, phủ kín mi cốt nên mày có tú khí( tức là trọc trung hữu thanh). Kẻ như vậy là ký tướng (tướng lạ) chứ không phải là trọc tướng ( tướng lỗ mãn, trông mất tình cảm) Ngược lại, Trọc tướng cũng giống như Kỳ tướng về hình hài,nhưng mắt lộ mà vô thần hoặc có thần quang mà mục quang hung bạo: mày tuy đậm mà sợi thô xoắn tít,không phải bao phủ hết mạng vận.Kì tướng là tướng phát đạt, nổi tiếng hơn người còn Trọc tướng là hạ tiện, phi bần tắc yểu

3-Cổ tướng giống như Tục tướng : 
Các bộ phận chính của khuôn mặt đều lộ, nhưng lộ mà khuôn mặt đầy đặn, da thịt tươi nhuận có sinh khí, răng tuy thưa vàng nhưng vững chắc và bóng , một màu tin khiết, thần khí an tĩnh thì đó là Cổ tướng( tướng người cục mịch quê mùa) chứ không 
phải là Tục tướng ( tướng kẻ tầm thường không bao giờ khá được)

4-Quái tướng giống như Lậu tướng : 
Hình hài, mặt mũi quái gở, không giống thế nhân, tỷ như mặt đen như lọ chảo, thân hình kệch cỡm, nặng nề, nhưng nếu trong các xấu xí đó mà ánh mắt như mắt lân, mắt phượng, khoan hòa mà có uy răng trắng và đều,chuẩn đầu tròn trịa, nở nang , khí phách quảng đại thì đó là Qúai tướng ( tướng xấu lạ lùng, ít ai có) chứ không phải là Lậu tướng ( tướng dị hợm khiến người nhìn phải ớn lạnh)
     Các lọai tướng Kỳ ,Qúai,Cổ tuy là kỳ dị, dị dạng bề ngoài, nhưng bề trong thật là quí nhân, dễ dàng trở thành đại dụng.Họ khác với bọn tiện nhân( Trọc, Tục hoặc Lậu tướng) ở chỗ một đàng thần khí thanh sảng, một đàng thần khí ngưng trệ, thoáng nhìn thì có vẻ thô tục mà thẩm sát kỹ càng thì lại thấy tú khí hiện ra

      Một lần nữa ta thấy thần khí và khí phách vẫn là tiêu chuẩn phân biệt nét quí trong nét tiện , nét thanh trong nét trọc

b) Phân biệt phần tiện trong , tướng quý : phần quý trong tướng tiện của đàn bà : 
Tướng pháp cổ Trung Hoa thường phân tích tướng đàn bà thành thiện và ác tướng, dựa trên thân hình diện mạo. Thiện tướng được coi là quí ,ác tướng bị xem là tiện .Nhưng đó chỉ là cách nói tổng quát, chưa đầy đủ và không đi sát thực tế. Muốn dược chuẩn xác phải phối hợp cả Thanh lẫn Trọc phương trộn lẫn nhau trong một con người.Nói khác đi phải áp dụng nguyên tắc thanh trung hữu trọc, trọc trung hữu thanh khi đánh giá phẩm tính phụ nữ qua việc quan sát diện mạo ( thiện tướng hay ác tướng)

1) Quý trung hữu tiện
Tướng mạo phụ nữ coi thanh nhã, cao quí mà tính tình đê tiện là bởi vì trong cái thanh có lẫn cái trọc, tuy nhỏ nhưng chủ yếu cho nên thoáng qua thì xếp vào quí cách nhưng nhìn kỹ thì phải xếp vào loại tiện.Sau đây là các đặc thái quí trung hữu tiện:

  • Ngũ quan đoan chính mà da dẻ thô xạm ­ ngũ quan đoan chính là mắt sáng và lớn , lông mày mịn và đẹp, môi đều đặn, răng tươi khít, tai có luân phách phân minh , mũi thẳng

  • Bình thường thì đó là quí cách nhưng ngũ quan đoan chính mà da dẻ thô xạm , nóng khô thì đó là thanh trung hữu trọc, hình hài tốt mà thực chất không ra gì

  • Trán đầy đặn mà khi đi hay ngoái cổ nhìn lại phía sau ­ Trán đầy đặn biễu hiện cho sự đắc cách về trí tuệ nhưng kẻ hay đi ngoái cổ nhìn về phía sau là kẻ đê tiện, dâm đãng ngầm.

  •  Mày dài đẹp, uốn cong, mắt sáng sủa nhưng mép có ria khá rõ, cằm có lông mày khá đậm giống như râu- Mày thanh, mắt đẹp là tướng mỷ nhân nhưng phía dưới cằm và môi trên có lông mănh nổi rõ sắc đen lai nam tính biểu trưng cho sự cứng rắng , thô lộ, kém nhu thuận

  • ngũ nhạc đôn hậu mà sắc mặt kinh hoàng ­ Ngũ nhạc ( cằm , trán , mũi , lưỡng quyền ) đều ngay thẳng , cao và rỏ, có thế nhưng ánh mắt kinh nghi là hình hữu như mà thần bất túc, tựơng trưng cho sự non yếu, không tự chủ

  • Đứng ngồi ngay ngắn tề chỉnh mà lại cắn ngón tay ­ Đứng ngồi ngay ngắn tề chỉnh là kẻ khiến người khác phải nể vì không diện kiến nhưng hay cắn ngón tay ( hoặc móng tay ) lại là biểu tượng nội tâm dâm đãng, chỉ trọng điều sắc dục hơn là đạo lý. Nói khác đi, đó là tướng dâm ngầm mà bề ngoài lại có vẻ đạo đức, uy nghi

  •  Thanh âm rõ ràng , trong trẻo, mà thần thái đờ đẫn, hay cười với kẻ đối thoại ­ Thanh âm rõ ràngvà trong trẻo là biểu hiện khí chất đầy đủ , cơ thể khỏe mạnh , nhưng thần say, cười mỉm lại là kẻ dể bị quyến rũ vào con đường trụy lạc vì không đủ óc tự chủ và tính trinh tháo

  • Mặt mũi thanh tú mà da dẻ quá lạnh, thần thái quá thanh khiết ­ da dẻ quá lạnh thần thái quá thanh thì sự thái quá đó biến thành hàn tướng chứ không phải quí tướng . Do đó , kẻ hàn tướng là kẻ thọ căn mong manh, không trường thọ

2) Tiện trung hữu quí 

    Đàn bà mà có bộ vị trên mặt như sơn lâm ( hai bên mép tóc ở trán ) bị sẹo hoặc rụng tóc, tóc quá đậm mà thô, mắt thô trọc và giọng nói rõ, mũi quá xẹp và nhỏ , ngừơi Mộc pha Kim ( cao ốm mà da trắng bệch ) mày quá mày lạt, tai nhỏ , trán thấp...bị xếp vào loại tướng không tốt, lấy làm vợ tất đưa đến tai hại, nhưng nếu:

  • Sơn lâm bị phá khuyết hoặc có sẹo mà mũi và các bộ vị liên hệ đày đặn, hợp cách và liên hoàn.

  • Tóc đậm , thô mà lông mày dài đẹp. Mi cốt nổi nhưng không thô

  • Mũi nhỏ, bằng, không có chuẩn đầu đẹp, nhưng ánh mắt ngay thẳng , thần thái an hòa

  •  Môi vẩu, răng lộ nhưng tóc mịn, sắc tươi

  • Mắt thô trọc , tiếng rè mà cằm vuông vắn, đầy đặn, triều củng về mũi một cách tương xứng

  • Nguời Mộc Pha Kim mà ít nói, điềm đạm, tính tình lãnh đãm vừa phải.

  • Hơi ngắn , mày lạt và thưa mà thần sắc an nhiên, không kinh hoàng, không biến sắc khi gặp việc rắc rối

  • Tai nhỏ , trán thấp nhưng mày đẹp, mắt trong sáng ẩn tàng và chuẩn đầu nhỏ, nở thì đó lại là tiện trung hữu quí , phải phân định là hậu vận sẽ tốt đẹp chứ không thể coi là tiện tướng để quyết đoán là vận mạng sẽ không ra gì

     Theo nhà tướng học hiện đại rất nổi tiếng là Ngã Thị Sơn Nhân thì nhận định trên là rất đúng .Do đó, trong cuốn tướng mạng giảng tọa ông đã đặc biệt chú trọng tướng mạo phụ nữ và viết thành một thiên khảo cứu đặc biệt.

IV - MỘT VÀI GIAI THOẠI VỀ THANH , TRỌC 
    Thuật ngữ tướng học có câu nhất quý đề cửu tiên. Nhất tiên phá cứu quí , nghĩa là một nét tướng đôi khi chóng đỡ được chín nét tướng xấu nhiều khi phá hư chín nét tướng tốt.Câu nói này không phải chú trọng đến số lượng một hay chín vì đó chỉ là lối nói quá đà cho thuận miệng mà chỉ có nghĩa là trong phép xem tướng nhiều khi trên người một cá nhân có nhiều nét tướng xấu. Ngược lại, đôi khi có rất nhiều nét tướng tốt, chỉ cần một phá tướng đủ để làm tiêu tan những cái hay của các nét tướng tốt kể 
trên.Để chứng minh lập luận trên xin đơn cử bằng hai câu chuyện dưới đây:

1.- Nhất tiện phá cửu quí 
    Vào đầu thế kỷ 20 ở Bắc Kinh, tại một đại thanh lâu kỷ việngọi là Bát Đại Hồ Đồng , có một danh kỹ thanh lâu tên l2 Thái Phượng người gốc Tô Châu, có nhan sắc chim sa cá lặn, nổi danh là hoa khôi của Bắc Kinh, chẳng những nhan sắc , vóc dáng mà cả thanh âm lẫn tác phong của nàng cũng rất mực tao nhã không ai sánh kịp. Trông thấy nàng không ai có thể nghĩ rằng một vị hằng nga tái thế , dáng dấp quí phái hiền thục như thế mà lại sa chân vào chốn bùn nhơ.Theo tục lệ ở bên Tàu , các vị vương tôn đại thần đều thường lui tới kỹ viện, thấy hoa khôi vừa ý là xuất tiền mua về làm ái thiếp nên ít khi có một hoa khôi thanh lâu nào lại trầm luân quá một năm mà không được một đại thần nào hay phú ông ra tay tế độ.Trường hợp Thái Phượng thì ngược hẳn, tài sắc và dáng dấp của nàng gần như là xưa nay chưa từng có , thế mà ở kỹ viện bậc nhất thành đô đã gần 5 năm mà không có ai chuộc về làm thiếp. So với các bạn được hoàn lương hửng phúc , Thái Phượng đáng liệt vào hàng vợ bé của các đại thần nhất phẩm,Trước biệt lệ này, các danh sứ tướng học cả nước đều không tìm ra được đáp số.Hầu hết các nhà xem tướng đều thấy nàng thập toàn thập mỹ, thật xứng đáng sánh duyên với các vị đại thần.Mãi về sau ,nhân có vị tướng số họ Vi được coi là đệ nhất Trung Hoa đương thời đến du ngoạn Bắc Kinh, nhóm tướng sư tại đây mới mang chuyện hy hữu này ra thảo luận nhưng không cho biết mặt Thái Phượng và thân phận của nàng

     Một bữa nọ , có con của một vĩ đại phú thương ở Thiên tân nghe danh tài sắc cụa Thái Phượng muốn nạp nàng làm thiếp.Vị công tử này tuổi đã ngoài tam thập , đã có hai vợ nhưng đều sanh con gái, ý muốn lấy thêm Thái Phượng để mong có chút con trai nối dõi tông đường .Do đó , bà mẹ của chàng ta đích thân tới Bắc KINH MỜI Thái Phượng tới một đại tửu lầu ăn uống để nhân dịp quan sát và thẩm định tướng mạo nàng dâu tương lai. Trước mặt mẹ chồng tương lai, Thái Phượng ăn mẵc đúng kiểu con nhà khuê các, không phấn son lòe loẹt, nói năng lại càng giữ gìn hơn bao giờ hết.Những kẻ chua từng gặp nàng tại thanh lâu đều không dám ngờ đó là hoa khôi của giới làng chơi.Dể thử tài họ Vi, nhóm đồng nghiệp trên ngồi cách đó vài bàn nói cho họ Vi biết đó là tiểu thư họ Lý và nhờ họ Vi chỉ điểm xem tương lai và vận mạng của Lý tiểu thư ra sao

       Trước sự ngạc nhiên và thán phục đến tột độ của họ, vị tướng sư họ Vi , sau khi quan sát kỹ Thái Phượng . nhìn kỹ màu sắc làn môi , nghe tiếng nói đã cho người ta biết rằng: Thái Phượng về mặt ngoại biểu là thập toàn , thập mỹ, nhưng đó chỉ là phần ngoại ngũ hành . Về phần nội ngũ hành qua giọng nói nói và màu sắc làn môi nhân dịp không hóa trang ông đã khám phá ra có sự khuyết hãm.Tổng hợp phép vọng khí quan sát độc đáo của mình,họ Vi đi đến kết luận là Lý tiểu thư có ám tật trong người, khiến nam giới có kinh nghiệm ăn chơi sau một lần chung chăn gối đều hoảng sợ lảng xa .Vì vậy thoáng trông qua là quí tướng vì thuộc về loại nhất tiên phá cửu quí .Người như thế là hồng nhan bạc phận, chỉ đáng làm kỷ nữ lầu xanh mà thôi.Tướng quí của nàng chỉ là giả quí còn tiện lại là chân tiện nên số kiếp ắt không ra gì.

2) Nhất quý đề cửu tiện 
      Cuối đời Mãn Thanh , niên hiệu Quang Tự, Tổng đốc Qủang Châu là Trương Thụ Thanh, hình dáng thật là tiện tướng.Theo lời mô tảcủa người đương thời còn truyền lại thì họ Trương có lỗ mũi vứa to vừa hếch, miệng lớn như chiếc chậu, tai nhõn như tai chuột.Căn cứ vào tướng người thì không ai có thể nói đấy là vị nhất phẩn triều quan.Thế má họ Trương lại xuất thân tiến sĩ,cuộc đời sóng yên gió lặng, thăng dần đến chức Tổng đốc, gần như một ông vua con.Họ Trương cũng tự biết mình tướng quái dị,không biết quý ở chỗ nào.Bởi vậy,ông ta khổ công tìm tòi, nghiên cứu sách vở, nhờ thầy coi tướng nhưng không ai tìm thấy quí tướng ở đâu cả

      Một ngày kia khi miếu Thành Hoàng ở Qủang Châu ( thủ phủ tỉnh Qủang Đông) họ Trương cải dạng thànj dân thường đến quan sát các gian hàng coi tứong thấy có một vị tướng sư tự xưng là tài ba nhất vùng hiệu là Tái Quân Bình , rành nghề coi tướng ,lấy thù lao rất nặng.Mỗi lần coi là một lượng vàng, Trương cho là ông thầy bói này có thể tin được bèn bước vào quán,Vừa thấy Trương,Tái kêu lớn:" Đại Nhân". Trương tưởng thầy tướng đã nhìn ra nét quý tướng của mình nên mừng lắm, lại nghĩ rằng nơi có đông người đàm đạo bất tiện mới gọi phu kiệu rước Tái Quân Bình về dinh Tổng đốc rồi kính cẩn nói" Tôi tự biết mình không có điểm nào khả thủ, phiền tiên sinh chỉ điểm cho nỗi niềm thắc mắc lâu nay"

     Thẩm biện quan quan sát nhiều lần từ đầu đến chân vị Tổng đốc quyền uy, sau cùng lắc đầu tạ tội. Trương hỏi: " thế lúc ở trước miếu Thành hoàng , ông kêu ta là đại nhân thì dựa vào đâu?" 
Tái đáp: " Cái đó là do quan lớn làm quan lâu ngày nên có khí tướng ung dung bệ vệ của một quan trưởng, tiểu nhân thốt nhiên kêu liền chứ thật quả là không phải do xem tứong mà đoán ra.Cứ như sách vở , thì bề ngoài tướng quan lớn không phải là tướng quý hiển 

    Trương thấy Tái tính tình thành thật, hậu thưởng rồi tiễn chân ra cửa.Trong lúc sánh vai bước xuống thềm nhà.gia nhân của Trưong có việc khẩn cần phải bẩm trình từ hậu thất chạy ra miệng kêu lớn:" Đại nhân! Đại nhân" .Trương quay đầu lại , chính lúc đó Tái Quân Bình phát hiện ra nét quý tướng của Trương.Tái vội vàng bước ra sảnh đường nói rõ cho Trương biết, nguyên là trong lúc bất ngờ, họ Trương quay đầu lại phía sau, thân mình không chuyển động , chỉ có đầu quay một nửa vòng tròn một 
cách dể dàng tự nhiên.Sách tướng gọi đó là Long đầu cách cục rất hiếm có, kẻ nào có được thì quan đến cực phẩm triều đình.

    Nghe xong lời giải thích , Trương Thụ Thanh mới vỡ lõ ra rằng mình quí hiển như vậy là do ở tướng Cửu tiên nhất quý mà ra , trong lòngrất khâm phục tài quan sát bén nhạy của Tái Quân Bình ,bèn thưởng thêm rất nhiều tiền bạc và từ đó như cất 
được gánh nặng canh cánh bên lòng.

     Trong cuộc vận động văn họcTrung Hoa vào khoảng 1917, tại Đại học đường Bắc Kinh có hai nhân vật được mọi người coi xuất sắc nhất và có ảnh hưởng nhất đối với việc phổ biến văn học mới trong giới trẻ là Hồ Thích và Trần Độc Tú . Cả hai đều là giáo sư đại học, nhưng lúc đó Trần Độc Tú nổi tiếng hơn vì đang giữ chức khoa trưởng Văn Khoa

    Giữa lúc hai nhân vật trên đang thao túng văn đàng Trung Hoa có hai nhà tướng học khét tiếng là Thái Tứ Gia va øĐiếu Kim Ngao đã xem tướng hai người và đưa ra nhận xét sau đây:

     Đứng về mặt nhân tướng học , cả Hồ lẫn Trần đều là loại tướng thượng cách, nhưng chỉ ở mức thượng thừa của thượng cách mà thôi .Cả hai đều thuộc loại người " Quý mà không có thực quyền , danh cao hơn vị". Tuy vậy đi sâu vào các chi tiết thí quý cách của Hồ và Trần có nhiều điểm dị biệt.Họ Hồ thì thuộc loại trọc trung đới thanh còn Trần Độc Tú thì thanh trong đới trọc . Theo thẩm định của hai nhà tướng học trên thì quý cách của Hồ Thích có hậu vận tốt đẹp hơn quý cách của Trần Độc Tú .Hồ Thích cận thị , lông mày hơi đậm , giữa khoảng lông mày và mắt không có gì đặc biệt hơn người nhưng nhình chung là tướng người trung hậu. Trái lại Trần Độc Tú thì mi thanh mục tú , chưa nói thành lời mà khoảng giữa hai lông mày lẫn mắt đã có vẻ như muốn nói thành lời, khiến người nghe dễ sinh thiện cảm. Chẳng những mi thanh mục tú ,Trần Độc Tú còn có dáng dấp thanh nhã , anh tuấn,phong độ tiêu sai, giọng nói có âm điệu trầm bổng rất hấp dẫn người nghe. Người ngoài nhìn qua lông mày cặp mắtcủa họ Trần nhận ra ngay là các bộ vị có hai đặc điểm : cao và thanh tú . Mày cao có hai nghĩa , khoảng cách giữa chân lông mày và mắt xa nhau tức là lông mày không ăn lan xuống bờ mắt. Nghĩa thứ hai là đuôi lông mày cao hơn hai tai . Kẻ có lông mày cao , theo nghĩa thứ nhất là kẻ thông minh , tính tình phóng khoáng , cao theo nghĩa thứ hai thì về mặt mạng vận sẽ có vị cao danh trọng.

     Còn thanh tú nghĩa là lông mày màu đen , không tạp loạn , tuy không quá thưa nhưng cũng không quá cao và dày, chỉ với đủ để người ngoài nhìn thấy đước chân sợi lông mày. Người có loại lông mày thanh tú bất luận lông mày dài ngắn là kẻ thông tuệ xử sự phân minh dứt khoát . Thêm vào đó , mắt Trần Độc Tú rất đẹp . Do bởi tướng quý đó , ông ta là một bậc danh tiếng vào bậc nhất trong giới đại học thời đó.

     Về " Mi đậm mắt trọc " dưới con mắt phàm tục thì đó là tướng xấu nhưng dưới nhãn quan tướng học thì không hẳn là xấu, nếu như trong caái trọc có cái thanh . Đối với những kẻ mới học nghề coi tướng nhìn thấy được cái trọc trong cái thanh cũng như cái thanh trong cái trọc là những điều rất khó. Chính là dựa vào việc xem tướng Trần Độc Tú thanh trung đới trọc mà cả Điếu Kim Ngao lẫn Thái Tứ Gia đều quyết đoán là hậu vận của Trần Độc Tú sẽ không ra gì.Tuy vậy , phép tìm ra điểm trọc trong sự thanh tú của họ Trần giữa hai nhà tướng học kể trên không giống nhau. Điếu Kim Ngao căn cứ vào hình tướng nhiều hơn, đã tìm thấy trong sự thanh tú của họ Trần bị các điểm trọc sau đây làm vẩn đục :

- Mắt sáng nhưng ánh mắt không định 
- Tiếng nói thường hụt hơi ở cuối câu. 
- Bước chân đi thiếu vững vàng. 
- Gịong cười , tiếng nói không được thuần khiết, trong trẻo, tướng pháp gọi là 
Tiếu thanh bất dương .Những điểm kể trên làm quý cách của Trần Độc Tú bị phá vì thanh trung đới trọc và báo trước hậu vận khốn đốn. 

     Trái lại, Trái Tứ Gia thì căn cứ vào thần khí để xét tính cách thanh trung đới trọc của họ Trần , đại để : 
- Lúc trầm ngâm thì lông mày xoắn tít lại như các vòng xícch là dấu hiệu thô về ý. 
- Nhan diện không được thuần khiết và có tạp sắc tức là tạp về sắc. 
- Tú khí của mắt không tướng học tànglà kẻ tinh hoa phát tiết ra ngoài nên cũng bị coi là một loại thần trọc. 
Các điểm trọc trên ẩn tàng trong cái thanh tú đả khiến Trần Độc Tú sẽ bị trầm kha , khốn đốn trong buổi vãn niên. 

    Những lời luận tường kể trên được đăng trên báo chí . Lúc đó Trần Độc Tú còn là ngôi sao sáng chói trên văn đàng và chính giới Trung Hoa, nên trước những lời đoán tướng , Trần Độc Tú chỉ cười và nói rằng " Những chuyện xảy ra chính tôi còn 
chưa biết được làm sao dám tin tướng số?".

    Thời gian trôi qua rất mau, mười năm sau , tức là khoảng 1927 , Trần Độc Tú vốn là một nhân vật lãnh đạo cao cấp của Đảng cộng sảnTrung Hoa , vì bất đồng ý kiến với phe Mao Trạch Đông nên bị khai trừ ra khỏi Đảng. Đến khi cuộc chiến Trung Hoa ­ Nhật Bản bùng nổ , Trần phải chạy về trùng khánh. Vì Trần là một yếu nhân của cộng đảng nên tuy bị khai trừ rồi mà vẫn bị phe Tưởng Giới Thạch giam giữ . Sau đó tuy được ân thích, nhưng vẫn không đất dung thân phải ở lại Trùng Khánh và thuộc trong cảnh bệnh tật ngoài túng giữa thời kỳ chiến tranh Trung ­ Nhật đang bộc phát.

    Về phần Hồ Thích , hai nhà tướng học trên cho rằng : ngược lại với tướng của Trần Độc Tú tướng của Hồ thuộc loại quý tướng vì thanh trung hữu trọc do hai điểm sau đây :
- Lông mày tuy đậm và áp tới mắt, nhưng mắt của Hồ Thích lại cận thị tức là vô quang sắc, mỗi khi cười nói , mặt mũi tươi tỉnh , tỏa ra vẻ hòa ái , sảng trực. 
- Về cách đi đứng , nằm ngồi tướng của Hồ Thích giống hệt loại tướng Hạc. 
     Quý tướng của Hồ Thích là ở chổ đó. Hai nhà tướng học còn quyết đoán là nếu Hồ rời bỏ học giới đổisang chính giới thì tương lai sẽ còn cao xa hơn nữa. Lúc đó Hồ còn đang làm giáo sư văn học tại viện đại học Bắc Kinh . Khoảng mấy năm trước khi có vụ tranh chấp rồi đi đến xung đột Hoa ­ Nhật , nhân vì Hồ đả kích Uông Tinh Vệ nên sau này phe chính quyền kháng Nhật biết tiếng và từ đó Hồ gần như bỏ nghề giáo sư mà chuyển sang chính giới . Qủa nhiên , trong môi trường mới , Hồ nổi danh còn hơn lúc ở học giới đúng như lời dự đoán của Điếu Kim Ngao và Thái Tứ Gia. Khi Hồ làm Đại sứ Trung Hoa dân quốc tại Mỹ, có người mang chuyện này hỏi lại , Hồ trả lời rằng :" Việc tôi làm đại sứ thật là một điều lạ . Tôi vốn không tin vào vấn vấn đề vận mạng dù rằng lời dự đoán có trúng thì chẳng qua chỉ là ngẫu nhiên. Tuy vậy, tôi phải nhận chân rằng trong trời đất quả thật có những việc mà mình không thể tự chủ hoặc không hề nghĩ tới mà nó vẫn xảy ra".